Bộ Công Thương: Tập trung nguồn lực cho phát triển ngành công nghiệp nền tảng

Bộ Công Thương đang xây dựng chính sách, tập trung nguồn lực cho phát triển các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nền tảng.

Ông Lương Đức Toàn - Phó trưởng Phòng Công nghiệp chế tạo, Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương trao đổi với phóng viên Báo Công Thương xung quanh vấn đề này.

Giai đoạn từ năm 2011-2020, công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành kinh tế, xin ông nêu cụ thể và đánh giá tốc độ của tăng trưởng của ngành này thời gian qua?

Trong giai đoạn chiến lược 10 năm 2011 - 2020 vừa qua, công nghiệp là ngành có đóng góp ngày càng lớn trong nền kinh tế; cơ cấu từng bước dịch chuyển theo hướng hiện đại; đã hình thành được một số ngành công nghiệp có quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh và vị trí vững chắc trên thị trường quốc tế.

Cụ thể, quy mô sản xuất công nghiệp liên tục được mở rộng với chỉ số sản xuất công nghiệp giai đoạn 2011-2020 tăng cao (bình quân 7,7%/năm), tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm bình quân tăng 7,42%/năm, góp phần đưa công nghiệp thành trở thành ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành kinh tế quốc dân; đưa Việt Nam trở thành một trong những trung tâm công nghiệp của khu vực và của thế giới, thuộc nhóm ASEAN-4 và nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh công nghiệp trung bình cao.

Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp có sự chuyển biến theo hướng hiện đại. Giảm tỷ trọng các ngành thâm dụng tài nguyên, tăng tỷ trọng của các ngành chế biến chế tạo.

Chuyển dịch nội ngành từ các ngành thâm dụng lao động (dệt may, da giày) sang các ngành thâm dụng vốn (thép, ô tô, hóa chất) và hiện nay là sang các ngành thâm dụng công nghệ (điện tử, công nghệ thông tin).

Việt Nam đã hình thành được một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế, tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng dài hạn, cũng như thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Ông Lương Khắc Toàn
Ông Lương Đức Toàn- Phó trưởng Phòng Công nghiệp chế tạo, Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương

Công nghiệp chế biến, chế tạo trở thành động lực tăng trưởng của toàn ngành và toàn nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng cao nhất (bình quân 10,4%/năm), đóng góp vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước tăng nhanh qua các năm.

Giá trị tăng thêm ngành chế biến, chế tạo bình quân đầu người giai đoạn 2011-2020 đạt kết quả ấn tượng và tăng đều qua các năm (bình quân tăng 9,2%/ năm; trong đó năm 2017 đạt mức tăng cao nhất 13,1%).

Nếu duy trì tốc độ tăng MVA cao ở mức trên 10% như thời gian vừa qua thì trong vòng từ 5 đến 7 năm tới, nước ta sẽ đạt tiêu chí để gia nhập nhóm các nền kinh tế công nghiệp mới nổi theo tiêu chí phân loại của UNIDO.

Ngành công nghiệp hiện nay được nhận định đang phát triển mất cân đối, theo ông, nguyên nhân mấu chốt nằm ở đâu?

Hệ thống thể chế, chính sách phát triển công nghiệp còn chưa phát huy hiệu lực, hiệu quả để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa. Việc ban hành chính sách, pháp luật thúc đẩy phát triển công nghiệp nhiều khi còn chậm, với chất lượng chính sách còn chưa cao. Chưa có các công cụ chính sách đủ mạnh để thúc đẩy phát triển công nghiệp, thể hiện công nghiệp hoá là cốt lõi của quá trình phát triển.

Chính sách kinh tế vĩ mô chưa điều tiết phù hợp các nguồn lực quốc gia cho phát triển công nghiệp, chưa khuyến khích sự quan tâm của xã hội đầu tư vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Việc này dẫn đến sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn về tiếp cận vốn do bản chất của khu vực sản xuất đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn và dài hạn, thời gian thu hồi vốn chậm, lợi nhuận biên kém hấp dẫn so với đầu tư vào lĩnh vực khác như bất động sản, tài chính.

Nội lực của nền công nghiệp trong nước còn yếu, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp trong nước chưa cao, giá trị gia tăng tạo ra trong nước còn thấp, nền công nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào các nguồn lực bên ngoài.

Nguồn nhân lực công nghiệp còn yếu kém, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo thấp, thiếu tính liên kết giữa khu vực sản xuất với các cơ sở đào tạo, đội ngũ lãnh đạo các doanh nghiệp công nghiệp còn thiếu kinh nghiệm cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, thiếu nền tảng lý thuyết khoa học về quản trị sản xuất, không có cơ hội tiếp cận với các phương pháp quản lý sản xuất hiệu quả.

Bên cạnh đó, trình độ công nghệ của doanh nghiệp công nghiệp trong nước còn hạn chế, đa số các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng ngoài cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, với sự tiếp cận ở mức độ thấp đối với tất cả các trụ cột của một nền sản xuất thông minh.

Bộ Công Thương đang xây dựng Luật Phát triển công nghiệp, trong đó tập trung điều chỉnh các hoạt động phát triển một số ngành công nghiệp nền tảng, luật này đã triển khai đến đâu, thưa ông?

Mặc dù Đảng đã đề ra chủ trương công nghiệp hóa đất nước qua nhiều kỳ Đại hội (từ Đại hội VIII đến Đại hội XII), tuy nhiên, nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại đã chưa đạt được.

Nguyên nhân chủ yếu là do Nhà nước chưa thể chế hóa một cách có hiệu lực, hiệu quả các chủ trương của Đảng, mà tiêu biểu là chưa có một hệ thống pháp luật thống nhất để cụ thể hóa các tiêu chí về công nghiệp hóa làm cơ sở để thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên.

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã định hướng "Ưu tiên xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành về phát triển công nghiệp quốc gia" trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Phục hồi sản xuất công nghiệp
Xây dựng ngành công nghiệp Việt Nam thích ứng với bối cảnh mới

Trên cơ sở đó, tại Kế hoạch số 13-KH/TW ngày 28/11/2022 thực hiện Nghị quyết 29 nêu trên, Bộ Chính trị đã chỉ đạo Bộ Công Thương "xây dựng hồ sơ luật về phát triển công nghiệp trình cấp có thẩm quyền".

Như vậy, việc xây dựng Luật về phát triển công nghiệp là hoàn toàn phù hợp với định hướng của Đảng về việc hoàn thiện hệ thống thể chế, pháp luật trong nhiệm kỳ này để hướng tới mục tiêu thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trên cơ sở đánh giá toàn diện các thành tựu, hạn chế, tiềm năng và thách thức của công nghiệp Việt Nam, vào tháng 4/2022, Bộ Công Thương đã hoàn thiện Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật về phát triển công nghiệp, được Chính phủ thông qua chủ trương và báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội đăng ký vào Chương trình xây dựng luật của Quốc hội.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xem xét, đề nghị Chính phủ tiếp tục hoàn thiện Hồ sơ đề nghị xây dựng Dự án Luật về phát triển công nghiệp, bảo đảm tính khả thi của Dự án; tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành; đánh giá đầy đủ hơn tác động của Dự án Luật đối với kinh tế - xã hội để xem xét, báo cáo Quốc hội.

Hiện tại, Bộ Công Thương đang tiến hành tiếp thu, giải trình ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đồng thời tiếp thu những chủ trương, định hướng, giải pháp mới của Đảng về phát triển công nghiệp quốc gia tại Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để tiếp tục hoàn thiện Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật về phát triển công nghiệp, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong thời gian gần nhất.

Mục tiêu của Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn đến năm 2030 là thực hiện chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh. Thưa ông, để hiện thực hóa các mục tiêu này, giải pháp cần được tập trung là gì?

Hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật để làm nền tảng, cơ sở cho các hoạt động thúc đẩy phát triển công nghiệp.

Phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan liên quan trong việc tiếp tục tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển công nghiệp thông qua điều hành bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, các chính sách tài chính, tiền tệ, thuế cũng như các công cụ hỗ trợ thúc đẩy phát triển công nghiệp.

Phân bổ hợp lý các nguồn lực quốc gia từ Trung ương đến địa phương để tập trung phát triển các ngành công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên như vật liệu, cơ khí, chế tạo, chế biến, công nghiệp hỗ trợ cũng như các ngành Việt Nam có lợi thế sử dụng lao động và xuất khẩu như dệt may, da – giày, điện tử…

Phát triển hệ thống doanh nghiệp công nghiệp. Đặc biệt là phát triển các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân trong nước thực sự trở thành một động lực quan trọng cho phát triển công nghiệp đất nước.

Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đặc biệt là yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

Thúc đẩy khoa học và công nghệ, các hoạt động đổi mới sáng tạo, nghiên cứu và phát triển cho các ngành công nghiệp.

Khai thác hợp lý nguồn tài nguyên, khoáng sản để huy động nguồn lực phát triển các ngành công nghiệp vật liệu, công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế biến, chế tạo; bảo đảm việc bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu trong quá trình phát triển công nghiệp.

Nguồn: Báo Công Thương