Dù đã có định hướng mũi nhọn tập trung vào các ngành dệt may, da giày, điện tử, sản xuất lắp ráp ô tô, cơ khí chế tạo, công nghệ cao; công nghiệp vật liệu, luyện kim… song thực tế, hầu hết các ngành vẫn đang gặp khó khăn trong phát triển.
Chỉ khi đạt mức nội địa hoá cao hơn, ngành công nghiệp mới có thể tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đóng góp tích cực vào nền kinh tế quốc gia. Ảnh: TT
Theo Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), vướng mắc của nền công nghiệp Việt Nam nằm ở việc nội lực còn yếu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phụ thuộc quá lớn vào các doanh nghiệp FDI. Đơn cử, các doanh nghiệp FDI chiếm hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt, đối với các ngành xuất khẩu chủ lực như điện - điện tử, dệt may, da giày, số lượng doanh nghiệp FDI chỉ khoảng 20% trên tổng số doanh nghiệp nhưng lại chiếm tới hơn 80% kim ngạch xuất khẩu. Các doanh nghiệp này chủ yếu tập trung ở khu vực hạ nguồn để tận dụng các ưu đãi về thuế và các chi phí đầu vào như nhân công giá rẻ và các yêu cầu về môi trường, lao động chưa quá cao của Việt Nam.
Số liệu thống kê của Cục Công nghiệp cho thấy, hiện ngành công nghiệp ô tô nước ta đang phải nhập khẩu 80% linh kiện sản xuất. Hiện cả nước có 377 doanh nghiệp ô tô, trong đó có 169 doanh nghiệp FDI, chiếm tỷ lệ 46,43%. Số liệu này có thể nhìn nhận, số lượng nhà sản xuất, cung ứng trong nước cho ngành công nghiệp ô tô còn khá khiêm tốn. Tổng số sản phẩm trong ngành này là 1.221, trong đó đa số là sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, hàm lượng công nghệ trung bình và thấp, có giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị của một chiếc ô tô.
Theo mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp ô tô, năm 2025 là 40 - 45% và năm 2030 là 50 - 55%. Nhưng con số thực tế hiện nay mới đạt bình quân khoảng 7 - 10%. Con số này thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu đề ra và so với các quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Indonesia và Malaysia. Chưa hết, ngành ô tô trong nước còn chịu chi phí sản xuất lắp ráp cao hơn các nước trong khu vực.
Về phụ tùng, linh kiện, hiện Việt Nam mới chủ yếu sản xuất được các phụ tùng có công nghệ giản đơn, như ghế ngồi, kính, săm lốp... Những linh kiện quan trọng, có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao như hệ thống phanh, ly hợp, hộp số, hệ thống lái... vẫn phải nhập khẩu hoàn toàn.
Đơn cử như ngành điện tử, được đánh giá là ngành công nghiệp mũi nhọn đóng vai trò lớn trong xuất khẩu, nhưng thực tế, nhóm hàng điện tử, máy tính và linh kiện Việt Nam vẫn phụ thuộc phần lớn vào các doanh nghiệp FDI. Theo thống kê của Bộ Công Thương, tỷ lệ nội địa hóa ngành điện tử của Việt Nam hiện chỉ khoảng 5 - 10%.
Bà Đỗ Thị Thúy Hương - Ủy viên Hiệp hội Doanh nghiệp điện tử Việt Nam (VEIA) chỉ ra, thực tế căn bản là tỷ lệ nội địa hóa ngành điện tử còn thấp; các sản phẩm điện tử trên thị trường Việt Nam đa số là hàng nhập khẩu nguyên chiếc hoặc lắp ráp trong nước bằng linh kiện ngoại; doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử dù đã tham gia vào chuỗi giá trị của ngành, nhưng mới cung cấp được các sản phẩm đơn giản, có giá trị hàm lượng công nghệ thấp.
Là doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng điện tử có tiếng toàn cầu, bà Lê Thị Mỹ Loan, Trưởng phòng kỹ thuật Công ty TNHH Sharp Manufacturing Vietnam (Sharp Việt Nam) chia sẻ, hiện có nhiều linh kiện, thiết bị mà doanh nghiệp trong nước chưa thể cung ứng cho Sharp, nên thương hiệu này dù có nhà máy tại Việt Nam, nhưng phải nhập tới 50% linh kiện phụ trợ từ nước khác.
Ngoài ra, nói về bất lợi của các doanh nghiệp cung ứng nguyên liệu tại Việt Nam, đại diện Sharp cho rằng, bên cạnh yếu thế về chất lượng, hiện Việt Nam có nhiều sản phẩm linh kiện không làm kịp tiến độ theo đơn đặt hàng của Sharp. Ví dụ, một khuôn ép làm tại Thái Lan, Trung Quốc chỉ mất 40 ngày, thì ở Việt Nam phải tốn tới 60 ngày.
Hướng tới hình thành hệ sinh thái tự chủ cho công nghiệp
Theo Đề án Tái cơ cấu ngành Công Thương đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành một nước có nền công nghiệp hiện đại, thuộc nhóm quốc gia có năng lực cạnh tranh công nghiệp và có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu. Để đạt được mục tiêu này, việc phát triển nền công nghiệp tự chủ và gia tăng tỉ lệ nội địa hoá trong toàn ngành công nghiệp là một trong những nhiệm vụ quan trọng.
Hiện nay, Bộ Công Thương đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tổ chức hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ kết nối với các tập đoàn đa quốc gia để tìm kiếm cơ hội tham gia chuỗi cung cấp cho các tập đoàn này tại Việt Nam cũng như tại nước ngoài; triển khai hiệu quả các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư theo quy định của pháp luật về phát triển công nghiệp hỗ trợ, vận hành hiệu quả Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Đồng thời, triển khai xây dựng các Trung tâm Kỹ thuật (trên cơ sở tham khảo mô hình của Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan) nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp nói chung, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, cơ khí nói riêng để nâng cao năng lực về kỹ thuật, quản trị, đáp ứng yêu cầu của các tập đoàn đa quốc gia, các doanh nghiệp FDI và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Việt Nam đặt mục tiêu trở thành một nước có nền công nghiệp hiện đại, thuộc nhóm quốc gia có năng lực cạnh tranh công nghiệp và có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu. Ảnh: TT
Trao đổi với Báo Công Thương, bà Trương Thị Chí Bình - Tổng Thư ký Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI) để tăng tỷ lệ nội địa hoá ngành công nghiệp phải có chế tài đủ mạnh để các doanh nghiệp FDI thực hiện được tỷ lệ nội địa hóa, liên doanh với các doanh nghiệp trong nước sản xuất linh kiện, phụ kiện; đưa ra các tiêu chí và biện pháp khuyến khích cũng như chế tài xử phạt những doanh nghiệp FDI không thực hiện đúng cam kết về tỷ lệ nội địa hóa. Chính phủ và các ban, bộ, ngành liên quan cần tiếp tục quyết liệt và quyết liệt hơn nữa trong việc “thúc ép” các doanh nghiệp FDI cam kết nội địa hóa. Đồng thời, tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ trong nước để giữ chân dòng vốn FDI.
Được biết, đối với ngành công nghiệp ô tô, hiện trong nước có THACO và VinFast đạt tỷ lệ nội địa hóa cao, khi liên tục đầu tư, tăng sản xuất cung ứng nguyên liệu, linh kiện phụ tùng.
Đại diện lãnh đạo Tập đoàn THACO cho biết, tham gia vào ngành ô tô, THACO có mục tiêu trở thành Trung tâm sản xuất ô tô cho các hãng xe quốc tế tại Việt Nam, đồng thời xuất khẩu ra các khu vực, đặc biệt là khu vực ASEAN để tận dụng lợi thế của các hiệp định thương mại đã có.
Theo hướng này, THACO đang tập trung làm công nghiệp hỗ trợ để sản xuất ra các bộ phận như khung vỏ, nội ngoại thất cùng các thiết bị điện tử cũng như áp dụng các nền tảng số về thông minh, an toàn. Trong năm 2024, THACO đang đầu tư thêm 7 nhà máy và năm 2025 đang đầu tư thêm 3 nhà máy nữa để sản xuất được tất cả các linh kiện, phụ tùng mà Việt Nam có lợi thế cũng như không có sự thay đổi nhiều về công nghệ. Hiện THACO đã bán được các linh phụ kiện cho các nhà sản xuất ô tô đang có tại Việt Nam gồm Hyundai, Ford, Toyota, Isuzu với giá trị khoảng 13 triệu USD.
Theo lãnh đạo Cục Công nghiệp, sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp đầu chuỗi như THACO, Vinfast có vai trò quan trọng trong việc tạo lực đẩy cho ngành công nghiệp ô tô nói chung và công nghiệp hỗ nói riêng phát triển.
Để đẩy mạnh nền công nghiệp mang tính tự chủ, vững mạnh, theo Bộ Công Thương, trọng tâm thời gian tới ngành cần tiếp cận công nghệ sản xuất hiện đại, xây dựng những tập đoàn kinh tế đủ mạnh dẫn dắt các ngành công nghiệp.
Cụ thể, Bộ Công Thương sẽ hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật để làm nền tảng, cơ sở cho các hoạt động thúc đẩy phát triển công nghiệp. Phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan trong việc tiếp tục tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển công nghiệp thông qua điều hành bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, các chính sách tài chính, tiền tệ, thuế cũng như các công cụ hỗ trợ thúc đẩy phát triển công nghiệp.